Danh sách Blog của Tôi

Thứ Tư, 9 tháng 2, 2011

TRĂM NĂM NHÌN LẠI MƯỜI NĂM ( Tác giả Vũ Ninh gửi tặng KT26 )


(Bài báo này đã được đăng trên số Tết Tân Mão của tạp chí Đầu Tư Chúng Khoán. Tác giả  Vũ Ninh, cựu sinh viên KT25 ĐHHH và nay là thành viên Hội Đồng Quản Trị Tập Đoàn GEMADEPT.)

Ông nội Ân sinh năm 1910, lúc chào đời ông được tặng một túi tiền xu. Ông nội bạn của Ân là một người Mỹ cũng ra đời năm 1910, đầy tháng tuổi người ta tặng ông 10USD. Năm 2010 đã hết, mười năm đầu tiên của thế kỷ 21 đã trôi qua. Một trăm năm đã lùi xa từ ngày ông nội Ân có món tiền đầu đời.
Năm 2010, Ân xây lại căn nhà trên mảnh đất hương hỏa có trên trăm năm từ đời cụ, đời ông, đời cha rồi bây giờ tới Ân và thằng con trai. Trong lúc đào móng nhà, người ta phát hiện ra một cái hũ. Tuy chỉ là một chiếc hũ sành màu da lươn nhưng kiểu dáng xưa lạ, hơn nữa nhấc lên thấy rất nặng, nên mọi người ai cũng nghĩ trong hũ đó phải có cái gì quý giá. Mọi người hồi hộp suy đoán, người thì đoán là hũ vàng, người thì nói ngày xưa tiêu bằng bạc nén  nên chắc là hũ bạc. Chỉ riêng bác Cả trầm ngâm không nói gì cả. Loay hoay mãi rồi người ta cũng cậy được miệng hũ. Một lớp bùn sền sệt đen trào ra, bên dưới là những miếng nhỏ tròn tròn bám dính vào nhau. Sau khi rửa sạch mọi người đều thấy đó là những đồng tiền xưa hình tròn có lỗ vuông ở giữa. Bác Cả nghẹn ngào, tay hết mân mê những đồng xu kẽm, lại đến xoa xoa chiếc hũ. Bác kể năm ấy giặc Pháp càn tới quê, ông bà Ân đem những đồ quý giá nhất như lư hương, mâm đồng, nồi ba, nồi bẩy, đồ sứ Tàu đem thả xuống ao nhà. Tiền thì dắt một ít vào người, còn lại thì cho vào chiếc hũ đem chôn. Bác nhớ chiếc hũ này có chứa túi tiền xu đầu đời của cha mình và những món tiền cả nhà tích cóp trong mấy mươi năm. Những đồng tiền mồ hôi nước mắt ấy bây giờ đã trở thành rỉ sét, các hoa văn họa tiết đã mờ hết cả nên dân chơi tiền cổ không mua, chúng chỉ còn giá trị kỷ niệm. Ân đem chuyện đào được hũ tiền kể cho anh bạn người Mỹ nghe. Anh ta nói rằng nếu ông Ân ở Mỹ, nếu số tiền đó không bị đem chôn mà dùng để đầu tư thì bây giờ cháu cụ đã có thể trở thành triệu phú Đôla. Anh ta chìa cho xem một biểu đồ (xem hình bên dưới)(1) và giải thích: nếu cụ cố anh đầu tư chỉ 1 đôla vào năm 1899 để mua cổ phiếu thì đến năm 2008 cháu cụ đã có 22ngàn745 đô la. Anh ta khoe rằng, món tiền thôi nôi 10 USD của ông nội anh ta đã được đầu tư mua cổ phiếu của một hãng dầu lửa. Nghe hắn liệt kê ra hàng loạt chữ “nếu”, Ân hơi choáng. Vậy ra nếu đầu tư 10 đôla từ thời ấy thì bây giờ có gần 250 ngàn, nếu bỏ ra 100 đô thì vị chi bây giờ đã có gần 2,5 triệu đô. Chu choa! Ân sẽ có 25 triệu Đôla, nếu…nếu…nếu….
Mặc dù còn phải trừ tỷ lệ lạm phát cho 100 năm, rồi còn phải tính đến ti tỉ chữ “nhưng” như chi phí cơ hội của đồng tiền, rủi ro kinh tế, chính trị, chiến tranh vv…nhưng nhìn vào những con số trên biểu đồ ai cũng thấy rằng đồng tiền mang vào đầu tư  lâu dài sẽ mang lại thịnh vượng cho một gia đình và đất nước hơn là đồng tiền cất giữ và đem chôn.

Cú hích tài chính 10 năm đầu thế kỷ trước.
          Tại sao ông nội Ân lại chôn tiền mà không mang ra làm ăn nhỉ? Mười năm đầu thế kỷ trước kinh tế nước ta ra sao? có cơ hội gì để làm giàu? có chỗ để đầu tư hay không ? Mười năm đầu (2000-2010) của thế kỷ 21 vừa khép lại, ngoảnh lại 100 năm trước, Ân thấy giai đoạn 1900 tới 1910 đầy ắp các sự kiện kinh tế, trong đó đầu tiên phải kể đến sự thay đổi lớn về chính sách tài chính.
Nửa cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp xâm lược nước ta, thiết lập chính quyền, rồi mở cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Đồng tiền được dùng thời ấy lúc đầu là đồng bạc có in hình con cò, rồi đến năm 1895 thì dùng đồng bạc Đông Dương đúc ở Paris nặng 27gr. Tiền đồng tiền kẽm của nhà Nguyễn vẫn được sử dụng trong nhân dân. Tiền tệ các nước hồi đầu thế kỷ trước đều dựa trên chế độ bản vị. Tức là một lượng tiền mặt trong lưu thông phải được đảm bảo bằng một lượng kim loại vàng, bạc dự trữ nhất định, ví dụ như có giai đoạn nước Mỹ ấn định cứ 1 Đô la Mỹ  bằng 1.603 gam vàng ròng. Chế độ bản vị vàng hoặc bạc nhằm khống chế việc in tiền, mở rộng tín dụng và phát hành trái phiếu vì nước nào phát hành tiền mặt ở dạng tiền giấy hay tiền xu đều phải có đủ vàng bạc dự trữ và có thể phải sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả lại vàng hay bạc.
Tiền tệ nước ta thời đó lấy bạc làm bản vị, lượng bạc dự trữ không nhiều nên tiền trong lưu thông cũng ít. Ngày 16-5-1900, Chính phủ Pháp có sắc lệnh cho phép Ngân hàng Ðông Dương ngân hàng được phát hành số trái phiếu nhiều gấp 3 lần số  kim loại bản vị dự trữ (2). Đây có thể coi là một chính sách tài chính quan trọng để người Pháp có thêm nguồn tiền. Nhờ chính sách này, chính quyền Pháp ở đông dương không còn quá lo lắng về tiền để đầu tư vào đầu tư  hạ tầng giao thông. Họ dễ dàng phát hành công trái, trái phiếu để làm dự án đường sắt, cầu Long biên vv…
Cầu và đường trăm năm trước.
Người làm thay đổi chính sách thuộc địa, quyết định xây dựng cả một hệ thống giao thông đường bộ đường sắt, cầu cống trên toàn cõi Đông Dương đầu thế kỷ trước chính là ông Paul Doumer Toàn quyền Đông dương người sau này trở thành Tổng thống nước Pháp năm 1932. Ông ta biết rằng mạng lưới giao thông thuận tiện đó là công cụ hữu hiệu nhất để dễ dàng khai thác đến kiệt quệ các nguồn tài nguyên, biến Việt nam thành một cái mỏ khổng lồ cung cấp đủ thứ  cho mẫu quốc, là cách tốt nhất để các công ty Pháp dốc hầu bao, dấy lên làn sóng mang tiền sang Việt nam, Campuchia, Lào làm ăn kiếm lợi. Thế nhưng, quyết định xây cầu Long biên ở Hà nội của ông Paul Doumer không phải dễ dàng gì  được chấp nhận mà còn vấp sự chỉ trích, chống đối, phê phán, hoài nghi của  báo chí, quan lại và cả nhiều nhà tư bản, quan chức người Pháp. Tờ  báo Pháp Thư tín Hải Phòng (Courries de Haiphong) viết rằng ông Paul Doumer  chẳng biết gì về tính khí thất thường của con sông Hồng luôn thay đổi dòng chảy mà dám quyết định xây cầu, rằng ông Toàn quyền không đếm xỉa gì đến việc toà công sứ tỉnh Hưng Yên đã bị dòng sông nuốt chửng, không cần biết trong tỉnh Sơn Tây có một dòng sông cũ cách con sông hiện nay 5km. Rồi không biết cây cầu này có bắc ngang một con sông hay không, cầu làm xong thì có dùng được hay không ? (3) . Quan lại nhà Nguyễn thì hoài nghi “Đặt một cây cầu trên sông Hồng à? Thật điên rồ! Y như việc chồng núi này lên núi kia để lên trời. Một con sông rộng như biển, sâu tới 20 mét, cộng thêm 8 mét nước nữa vào mùa lũ, dòng nước sẽ cuốn phăng mọi thứ - không gì chống đỡ nổi…”(4).  Là một nhà cai trị độc tài khét tiếng, quyền lực vô biên, có quân đội trong tay, ông Paul Doumer không cần phải lo đến sự phản đối, không phải dùng đến biện pháp mạnh để dẹp sự chống đối chỉ trích mà quyết định cho xây cầu. Năm 1867 dự án đã được đem ra đấu thầu công khai. Hãng Daydé&Pillé  vượt qua 6 công ty khác trong đó có cả Hãng Eiffel và trúng thầu xây dựng cầu  với kinh phí là 6,2 triệu frances, trích từ nguồn công trái Đông Dương. Cầu Long biên được khởi công. Cả một núi sắt thép  trên 5 ngàn tấn thép chở từ Pháp sang trộn lẫn với xi măng sản xuất tại Hải Phòng; gỗ đá từ Thanh Hoá và các tỉnh lân cận hòa với máu và mồ hôi của dân phu để tạo thành cây cầu lớn nhất Đông dương vào tháng 2 năm 1902 (sau 3 năm 7 tháng thi công nhanh hơn hạn định 5 năm).
Năm 1902, cả 2 cây cầu Long biên và cầu sắt Bình lợi đều đã hoàn thành tạo điều kiện cho việc khai thông hàng loạt các tuyến đường sắt khắp cả nước. Trong Nam, các tuyến đường sắt từ Sài gòn tới Biên hòa, rồi từ Sài gòn tới Nha trang lần lượt được khởi công và nhanh chóng đưa vào sử dụng chỉ mất có vài năm. Ngoài Bắc, nhờ cây cầu Long biên nối liền hai bờ sông Hồng  mà ngay trong năm đó 2 tuyến đường sắt mới là Hà Nội – Hải Phòng dài 102km và Hà Nội- Đồng Đăng dài 163 km cũng đã thông. Bốn năm sau (1906) Lào cai cũng được nối với Hà nội và sau đó đến 1/1908, đoạn đường sắt Đồng Đăng tới biên giới phía bắc dài 4km cũng đã xong tạo thành tuyến xe lửa Hà Nội- Biên giới Việt Trung dài 167km.  Hơn một trăm năm sau, năm 2010 dự án làm đường sắt cao tốc Bắc Nam bị phản đối dữ dội, còn nước Lào đã đạt được thỏa thuận với Trung Quốc để xây dựng một đường sắt cao tốc nối liền Thủ đô Viêng Chăn, Lào tới Côn Minh, Trung Quốc. Xem ra không phải chỉ có cầu đường, không phải chỉ ngày xưa mà bất kể dự án cấp quốc gia nào, ở thời nào cũng cần phải được quyết bởi những nhà lãnh đạo quyết đoán, biết tính toán thiệt hơn đặt lợi ích đất nước lên trên mọi toan tính khác.
Cây và đất
Chả phải bây giờ khi văn hóa mặt tiền lên ngôi mới có quy luật “đường mở tới đâu đất giàu tới đó” mà 100 năm trước, khi đường sắt, đường bộ mở tới đâu là tạo điều kiện để các nhà đầu tư  Pháp và sau này có thêm một số điền chủ người Việt mở đồn điền cao su, café, trà tới đó. Ở Nam kỳ, khi đường ray xe lửa chặng Sài gòn ra Phan thiết  thi công tới Trảng Bom, người ta đã nhìn thấy vùng này chẳng xa Sài gòn mấy đỗi, đất đai thì  bằng phẳng, cây cối xanh tốt, mát mẻ, phong cảnh hữu tình lại có sông,  suối Nhạn lớn chảy qua. Thời ấy đất không phải mua, không đắt như bây giờ, thích làm thì lấy vì thế mấy nhà thầu xây dựng và ông kỹ sư công chánh người châu Âu chỉ huy xây dựng liền hùn tiền lại để làm một trang trại ở đó. Vì nó ở gần một làng Dầu Giây của người Thượng nên họ gọi luôn là trang trại Dầu Giây cho tiện. Vì mục đích ban đầu chỉ là để làm nơi vui chơi cuối tuần, nhảy múa hát ca xả stress khi phải xa châu Âu sang xứ nhiệt đới, nên họ trồng đủ các loại cây cà phê, cacao, trà, hồ tiêu, sả và chăn nuôi bò. Nếu chỉ đơn thuần là trang trại để nghỉ ngơi , không thu hoa lợi thì trang trại này chắc cũng không thể thọ được lâu và  đã đến lúc họ thấy chán và muốn bán. Nhưng đúng lúc chán, thị trường xấu thì có tin tốt. Đầu năm 1905, vườn cao su thử nghiệm của ở Suối Dầu (Nha Trang) và  Phú Nhuận (Sài gòn)  do nhà bác học A. Yersin (tên ông nay được đặt cho nhiều con đường ở Việt nam) và kỹ sư nông nghiệp G. Vernet đã thành công. Trong một lá thư cho mẹ mình ngày 11.12.1904, ông A.Yersin viết :“Kết quả cạo mủ thử ở Suối Dầu rất đáng khích lệ, các cây cao su cho mủ ngày càng nhiều. Có thể chúng con sẽ đạt 250kg mủ khô một cây vào năm sau và 100kg mủ khô bán được ít nhất 1000 francs”.(5)  Rất nhanh nhạy, các chủ trang trại quyết định chuyển từ đất ăn đất chơi Dầu Giây thành đất làm đất ăn với cây cao su. Chỉ một năm sau (1906), lô cao su đầu tiên ở miền đất đỏ Đông Nam Bộ  ra đời với diện tích trên 8ha và từ đó liên tiếp các đồn điền cao su được mở ra ở Đông dương hình thành ra ngành công nghiệp cao su Việt Nam. Một trăm năm sau, giá cao su thiên nhiên tiếp tục lên cao chưa từng có. Người ta lại đi tìm đất trồng cao su khiến đất rừng trở thành đất vàng đất bạc. Tập đoàn cao su Việt nam và nhiều công ty khác đang phủ kín đồi hoang đất trọc ở trong nước rồi mở mang sang Lào, Campuchia để khơi dòng vàng trắng.
Những vụ M&A lớn từ một trăm năm trước
            Trên mặt đất là các lâm thổ sản gỗ rừng, hạt càfe, cacao, mủ cao su, dưới lòng đất là quặng bauxít nhôm, quặng sắt, than. Khắp Đông dương thời ấy và đến tận bây giờ chưa bao giờ hết những nhà đầu tư đến xin đầu tư, tìm cách để thuê mua, nhượng quyền đất. Câu chuyện về
chuyển nhượng, mua bán sát nhập (M&A) đầu tiên trong lịch sử kinh tế Việt Nam cận đại có thể là câu chuyện về lịch sử ngành Than. Ngược dòng lịch sử 170 năm về trước, vua Minh Mạng chính là người khai sinh ra ngành than bằng chỉ dụ ngày 10 tháng 1 năm 1840 cho phép tổng đốc Hải Yên (Quảng Ninh ngày nay) là Tôn Thất Bật  được thuê mướn dân đào lấy than mỏ  ở vùng núi An Lãnh thuộc Đông Triều.  Tuy vậy, do thương mại thời Minh Mạng chưa phát triển nên hàng năm chỉ khai thác vài chục vạn cân để  phục vụ nhu cầu trong nước, chỉ sau khi các vụ chuyển nhượng làm xong, các mỏ than thuộc về Pháp thì việc khai thác mới trở thành ồ ạt.
Vụ M&A đầu tiên ở ngành than diễn ra năm 1884, Triều đình nhà Nguyễn ký văn bản nhượng khu vực Hòn Gấc (Hòn Gai, Cẩm Phả) cho nhà tư bản Pháp là Ba-vi-ê-sô-phun với giá 40.000 đồng bạc Mễ-Tây-cơ, thời hạn 100 năm bắt đầu từ năm 1884(6). Thấy ngon ăn, bốn năm sau (1888) triều đình nhà Nguyễn lại bị ép nhượng bán khu vực Mạo Khê - Đông Triều cho các nhà tư bản Pháp để họ lập ra Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ, gọi tắt là S.F.C.T  được khai thác từ Bãi Cháy đến Nội Bảng diện tích gần 22 ngàn héc ta.(7) 
Từ sau các vụ chuyển nhượng đó việc khai thác được đẩy mạnh. Số mỏ than tăng nhanh, năm 1907 đã có tới 33 mỏ  và đến năm 1911 tăng lên 92 mỏ. Sản lượng than khai thác tăng lên nhanh chóng và chủ yếu được xuất ra khỏi Việt nam.
Cảng & hàng
Mười năm đầu thế kỷ là đỉnh của đợt khai thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914). Hàng loạt cơ sở hạ tầng cầu cống, đường sắt, đường bộ, bến cảng được xây dựng tạo điều kiện cho việc mở đồn điền trồng cây công nghiệp, khai thác mỏ than, quặng kim loại và hàng loạt xí nghiệp nhà máy khác phục vụ cho việc khai thác thuộc đia và nhu cầu của người Pháp ra đời. Nếu năm 1903 mới chỉ có 82 nhà máy thì mỗi năm sau số lượng tăng lên gần gấp đôi, đến 1906 đã có 200 nhà máy thuộc nhiều ngành như nhà máy xi măng, gạch ngói, nhà máy nước, nhà máy xay xát gạo, nhà máy chai, máy tơ, thuốc lá, rượu, đường....
Sài gòn thời ấy là một thương cảng nhộn nhịp bậc nhất châu Á. Tàu bè tấp nập ra vào Cảng Sài gòn và Cảng Hải phòng mang vào bạc nén, súng săn, nến, xi măng, thực phẩm Âu, dược phẩm, nước khoáng, bột ngũ cốc, đồ kim hoàn, đồng hồ, dầu ăn, giấy, quần áo, sắt thép, đồ sứ, nước hoa, ô dù, sơn màu, xà bông, đường, thuốc lá và xì gà, vải các loại, đồ thủy tinh, dụng cụ nhà bếp, các loại bia, rượu vang, rượu mạnh. Chính sách của Pháp thời đó áp dụng ở Sài gòn có  nhiều điểm thoáng hơn rất nhiều nước. Hàng hóa của Pháp nhập vào Nam Kỳ, dù chở trên tàu của Pháp hay tàu của nước khác đều được miễn thuế hải quan. Còn hàng hóa xuất đi từ Cảng Sài gòn nếu là thổ sản của thuộc địa thì đều được miễn thuế, ngoại trừ cà phê, tiêu, ớt, sa nhân, đậu khấu, quế, trà …thì phải chịu một nửa mức thuế so với thuế đánh vào cùng loại hàng nhập từ các nước khác. Để mở rộng Cảng Sài gòn, Pháp đã thu thuế neo đậu cho tàu vào Cảng là 50 xu cho 1 tấn hàng trừ tàu của Pháp và Ý. Những nghị định ưu đãi hàng hóa từ Pháp nhập vào cảng Sài Gòn tiếp tục được ban hành, điều chỉnh trong các năm 1910, 1913. Chính nhờ chính sách như vậy mà hàng hóa ra vào cảng Sài gòn tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1862, mới chỉ có 117 tàu châu Âu (51 tàu của Pháp) chở đến Sài gòn 53.200 tấn hàng và chở đi 42.470 tấn gạo, 1.023 kiện bông, 1.746 kiện vải vv. Thì đến những năm 1910, lượng hàng hóa tăng qua cảng đã tăng gấp gần 100 lần, 1426 tàu ra vào cảng chuyên chở 2.544.369 tấn hàng.(8)
 Với tốc độ gia tăng hàng hóa như vậy, Cảng Sài gòn phải được mở rộng. Công ty Eiffel ( thành lập bởi Kỹ sư Gustave Eiffel và đã xây dựng tháp Eiffel nổi tiếng năm 1889) đã trúng thầu công trình bến cảng Sài Gòn và bắt đầu làm từ năm 1901. Năm 1910, chính quyền Pháp đầu tư thêm 10,3 triệu francs tiếp tục nâng cấp cảng Sài Gòn trong đó có các hạng mục chính bến cảng 6,2 triệu  francs;  kho hàng 1.4 triệu, đường ray 1.3 triệu và phao neo, cầu quay, bến tàu sông(9). Tròn một trăm năm sau (2010), các cảng Gemadept, PSA, Hutchison, Tân cảng đã và đang mọc lên ở Cái Mép – Vũng tàu với quy mô lớn gấp hàng trăm lần ngày xưa để thay thế các bến cảng ở dọc sông Sài gòn đã hoàn thành sứ mạng lịch sử .
Trở lại câu chuyện hũ tiền
Nhìn bức tranh kinh tế Việt nam mười năm đầu thế kỷ trước, các kinh tế gia thấy có rất nhiều cơ hội đầu tư và làm giàu. Nhưng những cơ hội đó chỉ giành cho giới tư bản Pháp, Âu, người Hoa và một số rất ít các nhà tư sản dân tộc. Còn với người dân thường, đất nước loạn lạc, lầm than dưới ách đô hộ,  dân chúng chịu sưu cao thuế nặng, hết phu phen phen rồi lại chạy càn, ăn còn không đủ làm sao nghĩ đến chuyện đầu tư. Trải qua mấy cuộc chiến tranh  Pháp đô hộ, rồi Nhật vào, Pháp quay lại, Mỹ xâm chiếm, rồi chiến tranh biên giới Tây nam, biên giới phía Bắc, tâm lý lo lắng , không dám làm giàu còn hằn sâu qua câu :”Ai ơi chớ vội làm giàu , thằng tây nó tếch thằng Tàu nó qua”. Dân ta bao nhiêu năm qua luôn trong tâm trạng tích cốc phòng cơ, chắt chiu từng đồng tiền và rất nhiều người chỉ biết cách giữ tiền bằng cách chôn như ông nội Ân.
 Một trăm năm sau, đất nước này đã là của con dân nước Việt. Người dân có một Chính phủ vì dân bảo vệ nhân dân, đảm bảo quyền làm giàu chính đáng, tránh cho dân tộc khỏi họa xâm lăng. Hãy làm sao để người dân tin tưởng vào tương lai đất nước, không phải đem tiền đi chôn mà bỏ ra làm giàu, chấn hưng kinh tế. Làm sao để 1000 tấn vàng và 5 tỷ đô la trong dân chúng (con số  mà đại biểu Quốc hội chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu tại kỳ họp vừa qua) sẽ được đem ra làm đường, mở trang trại, xây nhà máy, lập công ty, nuôi tôm, nuôi cá, hoặc đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán.
Ân ao ước rằng đứa cháu nội của mình sau này có thể tự hào khoe với thằng bạn Mỹ của nó rằng, khoản tiền triệu đô nó đang có là do ông nội của nó bỏ 100 đô la đầu tư vào công ty của ông tại Việt nam.

Vũ Ninh.Sài gòn, 12/2010
(Bài báo này đã được đăng trên số Tết Tân Mão của tạp chí Đầu Tư Chúng Khoán.
Tác giả Vũ Ninh, cựu sinh viên KT25 ĐHHH và nay là thành viên Hội Đồng Quản Trị Tập Đoàn GEMADEPT.)

Tài liệu tham khảo
(1)       - trang 165, Analysis for Financial Management, Robert C.Higgins, NXB  NewYork 2009).
(2)       -  Quan hệ tài chính tín dụng ngân hàng thời Pháp thuộc, http://www.hochiminhcity.gov.vn
(3),(4)  -  Cầu Long Biên vượt qua sự ngăn cách hoài nghi và chế giễu http://kientrucvietnam.org.vn
(5)       -  Quá trình đâu tư và khai thác thuộc địa về cao su của tư bản Pháp ở Việt Namm (1858-1945), Nguyễn Thị Mộng Tuyền.
(6),(7)  -  Trang web tập đoàn than khoáng sản Việtnam ,http://www.vinacomin.vn/htx/Vietnamese/default.asp?Newid=5341
(8)       -  Hoạt động của cảng Sài Gòn trong thập niên đầu Pháp thuộc. http://www.hochiminhcity.gov.vn

(9)        -  Tìm lại dấu ấn Eiffel tại Việt Nam và Đông Dương, www.thethaovanhoa.vn/.../tim-lai-dau-an-eiffel-tai-viet-nam-va-dong-duong.htm -

1 nhận xét:

  1. Cám ơn Tác giả. Một bài viết có nhiều tư liệu lịch sử.

    Trả lờiXóa